Giảm nhịp tim bằng thuốc Ivabradine giúp cải thiện chức năng nội mạc trong bệnh mạch vành (nghiên cứu rivendel) (P.1)
Ngày 21/03/2019 03:57 | Lượt xem: 1182

TÓM TẮT

Mục tiêu

Dữ liệu thu thập được từ các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy Ivabradine thông qua việc ức chế kênh If có thể giúp làm giảm sự mất cân bằng oxi hóa và cải thiện chức năng nội mạc mạch máu.

 

Chúng tôi tập trung đánh giá tác động của Ivabradine trên chức năng nội mạc mạch máu ở bệnh nhân (BN) bị bệnh mạch vành (BMV) sau tái thông hoàn toàn bằng thủ thuật nong động mạch vành qua da (Percutaneous coronary intervention - PCI).

Phương pháp và kết quả

Sau ít nhất 30 ngày thực hiện PCI, 70 BN được phân nhóm ngẫu nhiên (thời điểm T0) điều trị bằng Ivabradine 5 mg chia làm 2 lần uống mỗi ngày (nhóm Ivabradine, n = 36) hoặc tiếp tục điều trị nội khoa chuẩn (nhóm chứng, n = 34). Sau 4 tuần ( thời điểm T1), đối với những BN có nhịp tim > 60 nhịp/phút, liều Ivabradine được điều chỉnh tăng lên đến 7,5 mg chia làm 2 lần uống mỗi ngày và được tiếp tục sử dụng thêm 4 tuần sau đó (thời điểm T2). Động mạch (ĐM) cánh tay được đánh giá sự dãn đường kính mạch gây ra bởi lưu lượng dòng máu (Flow-mediated dilatation - FMD) và bởi nitroglycerin (Nitroglycerin-mediated dilatation - NMD). Vào thời điểm T0, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm Ivabradine và nhóm chứng về tần số nhịp tim (68,0 ± 6,4 và 67,6 ± 6,4 nhịp/phút; p = 0,803) và FMD (8,7 ± 4,9 và 8,0 ± 5,5%; p = 0,577) và NMD (12,7 ± 6,7 và 13,3 ± 6,2%; p = 0,715). Sau giai đoạn nghiên cứu, nhóm Ivabradine cho thấy có sự giảm có ý nghĩa thống kê của tần số nhịp tim (65,2 ± 5,9 nhịp/phút tại thời điểm T1; 62,2 ± 5,7 nhịp/phút tại thời điểm T2; p < 0,001), sự cải thiện FMD (12,2 ± 6,2% tại thời điểm T1; 15,0 ± 7,7% tại thời điểm T2; p < 0,001) và NMD (16,6 ± 10,4% tại thời điểm T1; 17,7 ± 10,8 tại thời điểm T2; p < 0,001), trong khi không thấy những đặc điểm này ở nhóm chứng. Trong nhóm Ivabradine, giữa sự thay đổi tần số nhịp tim và FMD có mối tương quan nghịch ở mức độ trung bình theo thời gian từ T1 đến T2 (r = -0,448; p = 0,006).

Kết luận

Ở những BN bị BMV đã được điều trị tái thông hoàn toàn bằng PCI, việc thêm Ivabradine vào trong phác đồ điều trị chuẩn giúp cải thiện đáng kể chức năng nội mạc mạch máu. Hiệu quả này dường như liên quan đến sự giảm tần số nhịp tim.

 

TỔNG QUAN

Tăng nhịp tim lúc nghỉ tĩnh là một yếu tố độc lập tiên lượng tử vong ở BN bị BMV. Hơn nữa, trên các mô hình thực nghiệm cho thấy tăng nhịp tim có liên quan đến các cơ chế gây rối loạn chức năng nội mạc và sự tiến triển của mãng xơ vữa mạch máu. Hiệu quả của giảm nhịp tim đối với chức năng nội mạc đã được quan sát trong một vài bệnh cảnh lâm sàng. Tuy nhiên, các kết quả có được tỏ ra không đồng nhất, có thể là do sự không đồng bộ về cả đặc điểm lâm sàng của BN lẫn các thuốc sử dụng trong nghiên cứu.

Ivabradine là thuốc ức chế chọn lọc kênh If của nút tạo nhịp tim, làm giảm nhịp tim và không tác động lên huyết áp động mạch cũng như chức năng tâm thu thất trái. Trong các mô hình thực nghiệm, Ivabradine cho thấy có thể làm giảm sự mất cân bằng oxi hóa mạch máu, cải thiện chức năng nội mạc và ức chế sự tạo mảng xơ vữa mạch. Tuy nhiên, Ivabradine liệu có hiệu quả trên chức năng nội mạc ở người hay không vẫn còn chưa được biết rõ.

Do đó, mục tiêu của nghiên cứu này là khảo sát hiệu quả của sự giảm nhịp tim khi sử dụng Ivabradine trên chức năng nội mạc ở BN bị BMV đã được điều trị tái thông bằng PCI.

Phương pháp

  Nghiên cứu RIVENDEL (The Heart Rate reduction by Ivabradine for improvement of ENDothELial function in patients with coronary artery disease) là một nghiên cứu tiến cứu nhãn mở, phân nhóm ngẫu nhiên, có đối chứng được thực hiện tại trường đại học Campus Bio-Medico ởRoma (Ý), trong khoảng thời gian từ tháng 03/2014 đến tháng 01/2015.

Dân số nghiên cứu

Nghiên cứu bao gồm những BN có tiền sử BMV ổn định và đã được điều trị tái thông ĐMV hoàn toàn bằng PCI ít nhất 1 tháng trước khi đưa vào mẫu. Các BN phải đang có nhịp xoang và không có triệu chứng đau thắt ngực khi tham gia nghiên cứu. Lý do nghiên cứu chỉ bao gồm những BN được tái thông ĐMV hoàn toàn là nhằm để giảm thiểu tác động có thể có của thiếu máu cơ tim trên chức năng của lớp nội mạc mạch máu mà vốn dĩ tác động này có thể làm sai lệch kết quả khảo sát ảnh hưởng của sự giảm nhịp tim trên các tiêu chí chính. Các tiêu chuẩn loại trừ bao gồm: nhịp tim lúc nghỉ tĩnh < 60 nhịp/phút; phân suất tống máu thất trái giảm nặng (< 40%); phẫu thuật bắc cầu mạch vành, nhồi máu cơ tim, đột quỵ, cơn thiếu máu não thoáng qua trong vòng 6 tháng trước đó; đặt máy tạo nhịp, máy chuyển nhịp tim hoặc máy khử rung; hội chứng suy nút xoang; block xoang nhĩ; QT dài bẩm sinh; và block nhĩ thất hoàn toàn. Các bước tiến hành nghiên cứu được chấp thuận bởi Ủy ban Đạo đức, đồng thời các BN được yêu cầu viết bản đồng thuận tham gia nghiên cứu và thu thập dữ liệu.

Quy trình nghiên cứu

Thiết kế nghiên cứu được mô tả trong Hình 1.Bằng cách sử dụng hệ thống chọn lựa ngẫu nhiên trên máy tính, các BN được ký hiệu ngẫu nhiên (tại thời điểm T0) sử dụng thêm Ivabradine 5 mg 2 lần/ngày vào trong phác đồ điều trị chuẩn (Nhóm Ivabradine) hoặc chỉ tiếp tục phác đồ điều trị chuẩn (Nhóm chứng). Sau 4 tuần (thời điểm T1), những BN trong nhóm Ivabradine có nhịp tim lúc nghỉ tĩnh ≥ 60 nhịp/phút sẽ được điều chỉnh tăng liều Ivabradine đến 7,5 mg 2 lần uống/ngày, còn những BN với nhịp tim lúc nghỉ tĩnh < 50 nhịp/phút hoặc có các dấu hiệu, triệu chứng liên quan đến nhịp tim chậm sẽ được điều chỉnh giảm liều Ivabradine xuống 2,5 mg 2 lần uống/ngày. Sau đó, các BN được tiếp tục tiến trình điều trị thêm 4 tuần nữa (thời điểm T2). Tất cả các BN đều tiếp tục được điều trị trong suốt quá trình nghiên cứu và không thay đổi liều lượng thuốc hoặc thay thế thuốc khác. Sau khi kết thúc nghiên cứu, tất cả các BN đều được tiếp tục điều trị theo chỉ định của BS. Vào thời điểm T0, các BN được xét nghiệm thường quy (Công thức máu, chức năng thận, lipid máu và protein phản ứng C). Tại mỗi thời điểm T0 và T1, các BN của cả 2 nhóm nghiên cứu được khám lâm sàng, đo điện tim và đo phản ứng của ĐM cánh tay theo phương pháp không xâm lấn, đồng thời ghi nhận các biến cố tim mạch cũng như các tác dụng phụ của thuốc.

 

Đo phản ứng của động mạch cánh tay

Việc khảo sát chức năng nội mạc mạch máu không xâm lấn được thực hiện bằng siêu âm đánh giá phản ứng của ĐM cánh tay được thực hiện bởi BS siêu âm được chọn ngẫu nhiên. Các BN được yêu cầu không hút thuốc lá, không uống cà phê hoặc trà, không hoạt động thể lực trong vòng 60 phút và ngưng các thuốc trong vòng 12 giờ trước khi tiến hành khảo sát chức năng nội mạc mạch máu. Máy siêu âm được sử dụng để khảo sát là máy có độ phân giải cao với đầu dò siêu âm dạng mảng, tuyến tính, đa tần số 10 Mhz và ghi hình ảnh 2 chiều tại ĐM bên cánh tay thuận của BN ở tư thế nằm ngửa. Các đoạn động mạch cánh tay phía trên hố khuỷu tay với chiều dài 8 – 10 mm sẽ được ghi nhận lại theo hướng vuông góc với chùm tia siêu âm và theo hướng trục dọc suốt theo chiều dài của mạch máu. Sự dãn của mạch máu do yếu tố lưu lượng (FMD) gây ra bởi sự phóng thích nitric oxít được khảo sát sau khi làm tắc nghẽn tuần hoàn của ĐM cánh tay. Nói chung, hình ảnh cắt dọc của ĐM cánh tay được sử dụng để đo đường kính ĐM (đây là trị số cơ bản đầu tiên), sau đó một bóng áp lực sẽ được quấn quanh cánh tay và bơm phồng lên ở áp lực cao hơn 50 mmHg so với huyết áp tâm thu của BN, bóng áp lực sẽ giữ nguyên áp lực này trong vòng 5 phút trước khi được xả áp. Vào thời điểm 1 phút sau khi bóng áp lực đã được xả, hình ảnh siêu âm theo trục dọc của ĐM cánh tay được thực hiện để đo đường kính của ĐM (đây là trị số đo được sau khi tắc nghẽn ĐM). FMD được biểu diễn theo % phương sai đường kính. Sau 15 phút nghỉ tĩnh, tiếp tục đo đường kính ĐM cánh tay (đây là trị số cơ bản thứ 2) và đo lại vào thời điểm 3 phút sau khi cho BN sử dụng viên nitroglycerin 0,5 mg ngậm dưới lưỡi (đây là trị số đo được sau khi sử dụng nitrate). Sự dãn của mạch máu không do lớp nội mạc, nghĩa là dãn do sử dụng nitroglycerin (NMD), sẽ được ghi nhận lại và được biểu diễn theo % phương sai đường kính. Các số đo đường kính ĐM cánh tay có được bằng cách đo đường kính bên trong của mạch, ở 2 điểm tiếp giáp của lớp nội mạc mạch máu với lòng mạch và vào cuối thời kỳ tâm trương (điểm khởi đầu sóng R trên máy siêu âm có gắn điện tâm đồ). Mỗi lượt siêu âm để đo đường kính mạch sẽ có 5 chu chuyển tim được sử dụng và số đo đường kính được lấy là số đo trung bình của 5 lần đo này. Với 20 BN được chọn ra ngẫu nhiên, những thay đổi của các trị số FMD và NMD được đo bởi các BS siêu âm mạch máu (mỗi BS siêu âm làm lặp lại 2 lần đo) lần lượt là 1,20 ± 0,9 và 1,9 ± 1,5 %. FMD < 7% được xem là yếu tố chỉ điểm cho rối loạn chức năng lớp nội mạc.

Các tiêu chí nghiên cứu

Tiêu chí chính của nghiên cứu là so sánh chức năng lớp nội mạc (FMD) giữa 2 nhóm dân số nghiên cứu. Các tiêu chí phụ bao gồm: tỉ lệ mắc mới của rối loạn chức năng lớp nội mạc (FMD < 7%); sự dãn ĐM cánh tay không do lớp nội mạc (NMD); và sự tương quan giữa nhịp tim và phản ứng của ĐM cánh tay.

Phân tích thống kê

Các dữ liệu trước đây có được từ các mô hình thực nghiệm đã gợi ý rằng sự cải thiện 40% của quá trình dãn ĐM do lớp nội mạc có thể xảy ra sau khi điều trị với Ivabradine. Vì vậy, để kỳ vọng FMD với giá trị cao hơn 40% ở nhóm BN được điều trị với Ivabradine so với nhóm chứng, mỗi nhóm dân số nghiên cứu cần phải có ít nhất 32 BN nhằm đạt được power 0,8 và khoảng tin cậy 95%. Do đó, chúng tôi hướng đến việc đưa vào nghiên cứu tổng số 70 BN. Các biến liên tục được biểu diễn theo kiểu trung bình ± độ lệch chuẩn hoặc trung vị (các tứ phân lập trên và dưới). Các biến tạo nhóm được diễn giải dưới dạng các tần số và tỉ lệ %. Mô hình phân phối bình thường được kiểm chứng với phép kiểm Agostino–Pearson K2. Các phép kiểm giữa các biến số liên tục được thực hiện bằng cách sử dụng phép kiểm Student’s t test hoặc phép kiểm Mann–Whitney. Các phép kiểm này được điều chỉnh cho các trị số đo lặp lại. Các so sánh giữa những biến tạo nhóm được thực hiện bởi các phép kiểm Fisher hoặc phép kiểm Chi bình phương Pearson. Mối tương quan giữa các biến số liên tục được thực hiện bằng phép kiểm Pearson. Ở cả 2 nhóm dân số nghiên cứu, để xác định những thay đổi ở các mức của biến liên tục theo thời gian, phương pháp phân tích ANOVA 2 yếu tố cho các số đo lặp lại đã được sử dụng. Phân tích thống kê được tiến hành bằng cách sử dụng phần mềm thống kê STATA/IC 12  và trị số p < 0,05 (2 phía) được xem là có ý nghĩa thống kê.

Kết quả

Dân số bệnh nhân

Có tổng cộng 70 BN tham gia vào nghiên cứu: 36 BN được phân ngẫu nhiên vào nhóm Ivabradine và 34 BN được phân vào nhóm chứng. Các đặc điểm lâm sàng cơ bản và các dữ liệu cận lâm sàng được lần lượt ghi nhận lại trong Bảng 1và Bảng 2.

 

Giữa 2 nhóm dân số nghiên cứu, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các biến số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng. Ở nhóm Ivabradine, vào thời điểm T1, liều thuốc Ivabaradine được tăng lên đến 7,5 mg 2 lần/ngày cho 27 BN (75%), giảm liều thuốc đến 2,5 mg 2 lần/ngày cho 2 BN (6%) và duy trì liều 5 mg 2 lần/ngày cho 7 BN còn lại (19%). Không có BN nào phải ngưng sử dụng thuốc. Tuy nhiên có 2 BN (6%) xuất hiện các triệu chứng thị giác do sử dụng Ivabradine (đom đóm mắt). Trong suốt quá trình nghiên cứu, không ghi nhận bất kỳ các biến cố tim mạch lớn nào (tử vong, nhồi máu cơ tim, đột quỵ, hẹp mạch vành cần phải điều trị tái thông). Không có BN nào ngưng tham gia nghiên cứu.

Theo timmachhoc.vn

PK Đức Tín

Print Chia sẽ qua facebook bài: Giảm nhịp tim bằng thuốc Ivabradine giúp cải thiện chức năng nội mạc trong bệnh mạch vành (nghiên cứu rivendel) (P.1) Chia sẽ qua google bài: Giảm nhịp tim bằng thuốc Ivabradine giúp cải thiện chức năng nội mạc trong bệnh mạch vành (nghiên cứu rivendel) (P.1) Chia sẽ qua twitter bài: Giảm nhịp tim bằng thuốc Ivabradine giúp cải thiện chức năng nội mạc trong bệnh mạch vành (nghiên cứu rivendel) (P.1) Chia sẽ qua MySpace bài: Giảm nhịp tim bằng thuốc Ivabradine giúp cải thiện chức năng nội mạc trong bệnh mạch vành (nghiên cứu rivendel) (P.1) Chia sẽ qua LinkedIn bài: Giảm nhịp tim bằng thuốc Ivabradine giúp cải thiện chức năng nội mạc trong bệnh mạch vành (nghiên cứu rivendel) (P.1) Chia sẽ qua stumbleupon bài: Giảm nhịp tim bằng thuốc Ivabradine giúp cải thiện chức năng nội mạc trong bệnh mạch vành (nghiên cứu rivendel) (P.1) Chia sẽ qua icio bài: Giảm nhịp tim bằng thuốc Ivabradine giúp cải thiện chức năng nội mạc trong bệnh mạch vành (nghiên cứu rivendel) (P.1) Chia sẽ qua digg bài: Giảm nhịp tim bằng thuốc Ivabradine giúp cải thiện chức năng nội mạc trong bệnh mạch vành (nghiên cứu rivendel) (P.1) Chia sẽ qua yahoo bài: Giảm nhịp tim bằng thuốc Ivabradine giúp cải thiện chức năng nội mạc trong bệnh mạch vành (nghiên cứu rivendel) (P.1) Chia sẽ qua yahoo bài: Giảm nhịp tim bằng thuốc Ivabradine giúp cải thiện chức năng nội mạc trong bệnh mạch vành (nghiên cứu rivendel) (P.1) Chia sẽ qua yahoo bài: Giảm nhịp tim bằng thuốc Ivabradine giúp cải thiện chức năng nội mạc trong bệnh mạch vành (nghiên cứu rivendel) (P.1) Chia sẽ qua yahoo bài: Giảm nhịp tim bằng thuốc Ivabradine giúp cải thiện chức năng nội mạc trong bệnh mạch vành (nghiên cứu rivendel) (P.1)

Tin tức liên quan

Ý KIẾN KHÁCH HÀNG

  • Tôi Nguyễn Thanh Sang, sinh năm 1990. Từ sau khi khám và điều trị tại phòng khám Đức Tín, tôi rất biết ơn Bác Sĩ đã giải thích và chia sẽ về bệnh tình của tôi. Trong suốt thời gian điều trị tại phòng khám tôi được chắm sóc rất tận tình của nhân viên phòng khám. giờ đây bệnh tình của tôi đã được cải thiện theo chiều hướng tốt. Mong phòng khám ngày càng phát triển hơn để có thể cứu được nhiều bệnh nhân.

    Tôi thành thật cảm ơn!. sđt: 0938303275

  • Tôi Huỳnh Thị Mười, sinh năm 1940 đã khám và điều trị tại phòng khám Đức Tín. Tôi rất hài lòng về cách phục vụ và chăm sóc bệnh nhân của phòng khám. Bác Sĩ rất tận tâm giải thích và chia sẻ cùng với bẹnh nhân.

    Tôi Huỳnh Thị Mười xin thành thật cảm ơn!SĐT: 0972868746

  • Theo tôi nhận định PK Đức Tín là nơi cả gia đình tôi đặt niềm tin, hi vọng khi đến khám. Bác sĩ tận tình, chu đáo, hòa nhã với bệnh nhân. Y tá và nhân viên PK lịch sự, vui vẻ, chu đáo. PK sạch sẽ, vô trùng nên tôi rất thích. ĐT: 0949914060.

  • Bác sĩ rất tận tình, chu đáo và Y tá rất dịu dàng, lịch sự, niềm nở với tôi. Phòng khám sạch sẽ, thoải mái, lịch sự. Tôi rất thích PK Đức Tín. Mỗi khi đến khám bệnh tôi rất an tâm. ĐT: 0839820792.

  • Tôi là bệnh nhân, đã tới phòng khám Ths.Bs. Lê Đức Tín. Tôi thấy bác sĩ rất tận tâm chăm sóc bệnh nhân, giải đáp mọi thắc mắc và nhân viên rất tận tình từ nhân viên tiếp tân đến các em xét nghiệm, điều dưỡng. Phòng khám rất sạch sẽ và khang trang. Tôi rất hài lòng. ĐT: 01227880829.

Tìm kiếm
Hỗ trợ khách hàng

    Điện thoại bàn: (028) 3981 2678
    Di động: 0903 839 878 - 0909 384 389

TOP